15:19  | 

BMW M GmbH – chặng đường 40 năm phát triển (1)

Những chiếc xe có tính năng vận hành cao luôn là niềm mơ ước của những người yêu xe thực sự. Và BMW, với tư cách cánh chim đầu đàn của ngành công nghiệp ô tô có nhiệm vụ chắp cánh và truyền tải sự đam mê ấy. Hãy cùng điểm lại những cột mốc lịch sử 40 năm đáng nhớ của BMW M GmbH.

Kỳ I: Buổi bình minh

“Một công ty cũng giống như một con người. Chừng nào nó còn tiếp tục xu hướng thể thao, nó còn đầy nhiệt tình và sức mạnh”. Đó là những lời của Robert A. Lutz - thành viên ban giám đốc phụ trách bán hàng BMW AG vào năm 1972 dành cho công ty con trẻ nhất của BMW AG ở thời điểm đó - BMW Motorsport GmbH. Ngày nay, dù đã được đổi tên là BMW M GmbH nhưng nó vẫn sung sức, bài bản, tràn đầy nhiệt huyết và năng lượng như 40 năm về trước.

Những năm đầu thập niên 70 là buổi bình minh của một thời đại mới cho BMW. Một Hội đồng quản trị trẻ và mới dưới sự lãnh đạo của Eberhard von Kuenheim đã đặt ra chiến lược năng lượng và theo đuổi thành công liên tục cho công ty. Điều này bao gồm việc xây dựng trụ sở mới – Tòa nhà BMW Bốn Xy-lanh huyền thoại – cũng như thành lập bộ phận thể thao thuộc nội bộ BMW. Trích lời của Robert A. Lutz thêm một lần nữa: “ Thể thao luôn luôn là động lực thúc đẩy ở BMW”.

Thật vậy, nhu cầu và các cơ hội chưa khai thác vượt quá nhiều tiềm năng và năng lực của bộ phận thể thao trước đây. BMW 1800 TI và 2000 TI cũng như toàn bộ các dòng 2 Series chỉ đáp ứng một mảng của nhu cầu tổng thể, phần lớn các xe được chuẩn bị, vận hành và bán bởi các công ty độ xe. Kể từ giữa những năm 1960, BMW cũng tham gia vào giải đua Công thức 2. Và từ đó, không có đội đua nào có thể tham gia các cuộc đua Công thức thành công mà không có sự góp mặt của những chiếc xe BMW hiệu suất cao. BMW thống trị vô số các giải đua ở châu Âu cũng như toàn thế giới.

1972: Một đội đua giàu kinh nghiệm thành lập BMW Motorsport GmbH

BMW Motorsport GmbH ra đời vào ngày 1/5/1972. Giám đốc điều hành của đội đua kỳ cựu với quân số 35 người là Jochen Neerpasch, một cựu ex-Porsche làm lái xe và quản lý Ford Racing ở Cologne trước khi chuyển đến Munich. Ông ngay lập tức thu hút một nhóm các tay đua: Chris Amon, Toine Hezemans, Hans-Joachim Stuck và Dieter Quester. Björn Waldegaard và Achim Warmbold được tuyển dụng bởi công ty như những tay lái kết hợp.

Công ty mới có thể di chuyển vào tòa nhà chỉ sau vài tháng với phân xưởng đua và cửa hàng sản xuất thiết bị - tất cả đều được đặt ở vùng lân cận sát cạnh nhà máy Munich của BMW trong một khu đất khoảng 8000 m2 tại Preussenstrasse. Đây là nơi mà những chiếc xe thể thao cho năm 1973 được xuất xưởng: Một chiếc 950kg 2002 với sức mạnh của động cơ 2l, 4 van 4 xy lanh có công suất tối đa 240 mã lực dành cho đua đường trường cùng với một chiếc coupé du lịch. Jochen Neerpasch trong những ngày đầu thậm chí không dám tin đội của ông sẽ giành vô địch châu Âu ngay mùa giải đầu tiên tham gia.

Chiếc xe được lựa chọn là chiếc xe 3.0 CSL. Các cửa xe và nắp đậy được làm bằng nhôm, hộp số 5 cấp được trang bị lớp bọc ma-giê. Khối lượng tổng thể là 1092kg, tuy nhiên điểm nhấn thực sự được ẩn bên dưới mui xe, một động cơ 3340cc 6xy-lanh thẳng đứng với 12 van, phun nhiên liệu với tỷ lệ nén là 11:1 cùng công suất tối đa 360 mã lực. Đó là động cơ đua 2 van cuối cùng mà BMW xây dựng.

Triết lý truyền thống của BMW: Trọng tâm con người

BMW Motorsport GmbH bước vào mùa giải năm 1973 với sự chuẩn bị hoàn hảo không chỉ về kỹ thuật. Các tay lái cũng rất xứng đáng, với sự lựa chọn của Jochen Neerpasch cho toàn bộ đội hình hướng tới mùa giải driver tuning ở St. Moritz. Nơi đây, trong thiên đường của những người trượt tuyết Thụy Sĩ, toàn bộ đội đã nhận được sự hướng dẫn của một huấn luyện viên thể thao và nhà tâm lý học thể thao. Ngay cả sau đó, vào mỗi đầu năm, BMW gắn tầm quan trọng lớn lao vào sự tối ưu hóa vào giao diện máy/người. Và thậm chí sau này còn có các khóa học được cung cấp theo hình thức không chuyên. Kể từ năm 1977, những khóa học này được gọi là khóa đào tạo lái xe BMW.

Đây là nơi đội BMW Motorsport GmbH tham gia đua trong mùa giải 1973. Và không chỉ riêng 3.0CSL coupe gây được tiếng vang từ lúc đầu tiên: Lần đầu tiên, có 1 đội đua hoàn chỉnh, từ cái xe tải chở xe đua cho đến cái móc chìa khóa có cùng 1 thiết kế. Có ba sọc màu xanh, tím, đỏ trên nền trắng đặc trưng diện mạo của BMW Motorsport cho đến tận ngày nay.

Chiếc coupe CSL trong những màu sắc này nhanh chóng được biết đến trên toàn thế giới đua xe như một chiếc xe không biết đến thất bại. Hans-Joachim và Chris Amon đã mang về nhà giải thưởng Touring Car Grand Prix ở Nürburgring trong nỗ lực đầu tiên của họ. BMW giành được chiến thắng tổng thể của Touring Car Category trong 24 Hour Race ở Le Mans.

Chiếc xe du lịch thành công - BMW 3.0 CSL

Chiếc xe mơ ước coupe 3.0 CSL 3 màu huyền thoại sau đó đã trở thành chiếc xe du lịch thành công nhất tại thời đại của nó, với 6 lần chiến thắng trong giải vô địch châu Âu từ năm 1973 – 1979 và thống trị làng xe du lịch trong gần một thập kỷ. BMW 3.0CSL là một nhà tiên phong không chỉ trong thiết kế màu sắc mà còn qua một loạt các sáng kiến kỹ thuật quan trọng.

Thứ nhất, nó được cung cấp lực bởi động cơ sáu xy-lanh bốn van đầu tiên của BMW. Thứ hai, nó trang bị nguyên mẫu đầu tiên của hệ thông phanh chống bó cứng từ năm 1974, rất lâu trước khi sự đổi mới này trở thành tiêu chuẩn kỹ thuật trên BMW 7 Series. Và cuối cùng, trong lớp vỏ của chiếc coupe tốc độ này, 3.0 CSL phát triển công suất cực đại lên đến 800 mã lực. Vào năm 1976, BMW Motorsport GmbH đã gửi chiếc xe du lịch mạnh mẽ nhất của BMW tới đường đua cùng Ronnie Peterson, phiên bản cao nhất này của BMW trang bị động cơ tăng áp 3.2l còn hiệu suất được cố ý giảm xuống 750 mã lực.

BMW Motorsport GmbH vẫn duy trì quá trình phát triển thành công của nó trong Công thức 2: 50 chiếc xe trang bị động cơ 2 lít 4 van của BMW đã lên đường, kết quả đã giành 11 chiến thắng trong 16 cuộc đua. Vào năm 1973, Jean Pierre Jarier với một chiếc BMW đã mang về chức vô địch Công thức 2 châu Âu và động cơ này đã liên tục thống trị hạng mục động cơ 2 lít trong gần mười năm với Patrick Depailler (1974), Bruno Giacomelli (1978), Marc Surer (1979) và Corrado Fabi (1982) đã giành chiến thắng ở hạng mục này với những chiếc xe đua được trang bị động cơ BMW. Các đội khác đều rùng mình bởi động cơ 2 lít bốn xy-lanh được sản xuất trong một dây chuyền hơn 500 chiếc mà hầu hết trong số đó đều phát triển trên 300 mã lực.

Năm 1975, BMW Motorsport GmbH chuyển trọng tâm sang phía bên kia của Đại Tây Dương. Lúc đó, công ty tập trung vào các IMSA Series, tìm kiếm trong quá trình giới thiệu nhãn hiệu BMW tới một thị trường rộng hơn – Hoa Kỳ. Khi kết thúc năm, số lượng những người Mỹ biết BMW là viết tắt của “Bavarian Motor Works” tăng đáng kể và không có gì là ngạc nhiên với chiến thắng của BMW ở hạng mục của nhà sản xuất trong giải vô địch IMSA.

1976: Trường học lái xe trở thành khóa đào tạo lái xe BMW

Vào ngày 3/2/1976, Hội đồng quản trị BMW quyết định ủy thác cho BMW Motorsport GmbH một nhiệm vụ khác: chuyên nghiệp hóa hoạt động mà vào thời điểm đó vẫn được gọi là “trường học lái xe”. Chịu trách nhiệm cho toàn bộ BMW về các hoạt động xe thể thao, BMW Motorsport GmbH mong muốn thúc đẩy lái xe của mình trong việc thể hiện như một phần của hệ thống con người/máy móc.

Ngay từ đầu, một trong những nhiệm vụ chính của khóa đào tạo lái xe BMW là cung cấp xe cho những người tham gia sử dụng và triết lý này vẫn không thay đổi cho đến tận ngày nay. Điều này có nghĩa rằng, tất cả những người tham gia sở hữu những chiếc xe tương tự về điều kiện kỹ thuật. Để thực hiện triết lý này trong thực tế, công ty đã thành lập một đội xe nhỏ BMW 320i. Tất cả những chiếc xe này đều trang bị một hệ thống treo điều chỉnh đặc biệt, vi sai hạn chế trượt với tác dụng khóa 40% và ghế một chỗ ngồi cho lái xe. Vì vậy, đội hình đầu tiên của BMW trong khóa đào tạo lái được chuẩn bị rất tốt.

Chương trình giảng dạy khóa đào tạo lái xe BMW đã được thiết lập toàn bộ và sẵn sàng cho các khóa học đầu tiên ở sân bay quân sự Manching gần Ingolstadt. Rauno Aaltonen chính thức tham gia với tư cách giám đốc kỹ thuật đầu tiên của BMW vào ngày 13/1/1977. Thực tế, Aaltonen đã áp dụng kinh nghiệm của mình không chỉ trên đường đua, mà còn thông qua những quyển sách về lái xe được phát hành tại thời điểm đó: “Revolution at the Wheel” (Tạm dịch: Cuộc cách mạng ở bánh xe) – một quyển sách độc nhất vô nhị miêu tả rõ ràng khóa học và chương trình của nó, do đó đã được bán hết chỉ trong chốc lát. Cho đến ngày nay, cuốn sách này tiếp tục chuyển tải những kĩ năng độc đáo của Aaltanen đến những lái xe BMW mặc dù ngày nay, sự tập trung trong một thời gian dài được dồn vào tính năng an toàn tốt hơn.

Sự xuất hiện BMW road-going đầu tiên

Cũng vào nửa cuối những năm 1970, BMW Motorsport GmbH tập trung hầu như toàn bộ vào việc xây dựng những chiếc xe đua. Tuy nhiên, việc không chỉ những tay đua mà còn có cả những người đam mê xe BMW trong cuộc sống hàng ngày tìm kiếm M Power thúc đẩy “hàng nóng” 5 series ra đời từ năm 1974: 530, 533i, 535i. Thực vậy, những chiếc xe này cao cấp hơn so với các đối tác không chỉ về động cơ mà còn ở hệ thống treo vào công nghệ phanh - đã trở thành cuộc cách mạng xe 4 bốn ngồi hiệu suất cao trong thế giới ôtô thể thao. Ban đầu, những chiếc xe này được sản xuất và bán ra với số lượng rất nhỏ, nhưng không lâu sau đó, triết lý hiệu suất đã ngày càng trở nên phổ biến. Trước năm 1980, 895 chiếc xe dựa trên thế hệ 5 series đầu tiên đã được mua.

 >> Kỳ II: Ngôi sao sáng trong làng xe thể thao

Ngọc Điệp (TTTĐ)

Ý kiến đánh giá


Có thể bạn quan tâm