Thứ Sáu, 22/11/2024 | 22:25
15:44 |
Lịch sử mẫu xe huyền thoại Mini
Từ một sản phẩm "chữa cháy" cho cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào giữa thế kỷ 20, Mini đã từng bước vươn lên thành một biểu tượng thời trang và sành điệu trong ngành công nghiệp ôtô.
>> Chốt thời điểm thương hiệu Mini vào Việt Nam
Mini là biểu tượng xe hơi nhỏ của những năm 1960, được sản xuất bởi hãng xe Anh quốc BMC bắt đầu từ năm 1959 và là chiếc xe đầu tiên sở hữu hệ thống truyền động trước. Giải pháp tiết kiệm không gian đã ảnh hưởng đến tất cả các nhà sản xuất vào mọi thời điểm, và ngày nay, FWD là hệ thống truyền động phổ biến nhất. MINI mới được ra mắt vào năm 2001 để thay thế chiếc xe huyền thoại bằng những cập nhật cho thế kỷ 21.
Thiết kế mang tính cách mạng của Mini tạo ra bởi Sir Alec Issigonis (1906–1988), và được coi như một tầm nhìn chiến lược trong giao thông vận tải công nghiệp lúc bấy giờ. Ban đầu, người ta dự định sản xuất Mini như một chiếc xe giá cả phải chăng để đáp ứng cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Trong thời gian đó, nó được sản xuất hàng loạt tại nhà máy Cowley ở Anh quốc và sau đó là Úc, Chile, Italia, Bồ Đào Nha, Nam Phi, U-ru-oay và Vê-nê-zuê-la.
Chân dung Alec Issigonis
Chiếc Mini đầu tiên, được gọi là Mk I có ba lần nâng cấp quan trọng: Mk II, Clubman và Mk III. Các phiên bản thể thao hơn - Mini Cooper và Mini Cooper S là các biến thể xe đua vô cùng thành công đã từng 3 lần chiến thắng trên đường chạy Monte Carlo.
Thiết kế và phát triển
Mini được thiết kế như kết quả của cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956, làm giảm nguồn cung cấp dầu và khiến chính phủ Anh đau đầu trong vấn đề phân bổ nhiên liệu. Rõ ràng, doanh số của những dòng xe cỡ lớn cùng với lưọng tiêu thụ nhiên liệu đã giảm chính là lúc để thị trường của “những chiếc xe bong bóng” bùng nổ. BMC nhận ra rằng họ phải nhanh chóng sản xuất một chiếc xe nhỏ.
Issigonis, với những thành công trong việc thiết kế xe hơi được giao phó nhiệm vụ chiến lược này. Cùng với một nhóm nhỏ các nhà thiết kế, Issigonis đã phải sản xuất nguyên mẫu đầu tiên trước tháng 10/1957. Chiếc xe mới sử dụng động cơ BMC 4 xi-lanh làm mát thông thường, nhưng đổi mới bằng cách lắp nằm ngang cùng với hộp số 4 cấp đặt ở bình hứng dầu và hệ thống dẫn động cầu trước.
Austin Cooper S 1964
Tất cả những chiếc xe nhỏ dẫn động cầu trước được phát triển từ những năm 1970 đều sử dụng một cấu hình tương tự. Một cải tiến khác là vị trí của bộ tản nhiệt ở phía bên trái của chiếc xe, vì vậy, các quạt gió được gắn trên động cơ có thể được giữ lại, nhưng chiều quay bị đảo ngược cho nên nó thổi không khí vào vùng áp suất thấp tự nhiên ở phía dưới cánh trước. Cách làm này giúp làm giảm bớt chiều dài xe, nhưng luồng khí nóng qua động cơ có thể bị bị thổi đến bộ tản nhiệt.
Một số lời đồn đoán cho rằng Issigonis đã thiết kế các hốc chứa đồ nội thất có kích thước tương ứng với chai rượu gin yêu thích của ông. Một tính năng thông minh khác là nắp khoang hành lý có bản lề ở phía dưới, vì vậy xe có thể vận hành trong khi khoang này vẫn mở phòng trừ trường hợp bạn có quá nhiều thứ cần mang. Tất cả những kỹ thuật mới lạ thông minh này đã tạo nên một chiếc xe với kích thước tổng thể tối thiểu trong khi vẫn tối đa hóa được không gian cho các hành khách và hành lý.
Các cải tiến khác bao gồm việc gắn kết bộ hòa khí ở phía sau của động cơ. Chính cơ cấu này đã cho phép một bộ giảm tốc phụ giữa động cơ và hộp số để giảm tải trên hộp số cũng như ngăn chặn hiện tượng mài mòn nhanh chóng. Động cơ 848 cc cung cấp tốc độ tuyệt vời cho những chiếc xe kiểu này, với vận tốc tối đa có thể lên đến 115.2 km/h.
Mặc dù thiết kế của Mini có nguồn gốc thực dụng, song diện mạo của mẫu xe cổ điển này đã trở thành một hình ảnh biểu tượng dưới bàn tay của Rover Group – người kế tục BMC cũng như được đăng ký thương hiệu vào đầu những năm 1990.
MK I (1959 -1967)
Chiếc Mini phiên bản sản xuất đầu tiên trình làng vào tháng 4/1959, và trước tháng 6, vài nghìn chiếc xe đã sẵn sàng xuất xưởng. Tên “Mini” không được sử dụng ngay khi bắt đầu sản xuất. Các tài liệu quảng cáo lúc đó thường nhắc đến chiếc xe này bằng cái tên “SE7EN”.
Tuy nhiên, một mẫu xe Morris đã nổi tiếng vào thời điểm này là Minor, trong tiếng Latin có nghĩa “nhỏ hơn”. Vì vậy, để nhấn mạnh hơn nữa về kích thước của chiếc xe, quyết định đổi tên đã được đưa ra bằng việc sử dụng tên viết tắt của cụm từ Latin “minimus”, có nghĩa là nhỏ nhất.
Mẫu xe Mk I Mini 1963
Vào năm 1964, MK I nhận một thiết kế hệ thống treo mới có tên gọi Hydrolastic. Thay đổi này tạo ra một chuyến đi nhẹ nhàng hơn nhưng lại bị chỉ trích bởi nhiều người bởi chi phí tốn kém và làm thay đổi khả năng xử lý của chiếc xe. Bắt đầu từ năm 1971, hệ thống treo cao su ban đầu đã trở lại và được sử dụng cho đến khi kết thúc sản xuất.
Doanh số bán hàng không quá hứa hẹn sau khi ra mắt nhưng Mini đã trở thành một chiếc xe thành công trong thập niên 60 với tổng số 1.190.000 chiếc Mk I được sản xuất.
Tuy vậy, người ta vẫn dấy lên một tin đồn rằng, Mk I không mang lại lợi nhuận cho BMC, bởi vì nó được bán với giá thấp hơn chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh trên thị trường. Một số người thậm chí còn nói rằng, đó là nguyên nhân do sai sót kế toán. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn, MK I đã tìm được một chỗ đứng riêng trong lòng công chúng vào thời điểm này.
The Mk II – III (1968-1976)
Vào cuối thập niên 60, Issigonis đã làm việc để đưa ra một sự thay đổi cho chiếc Mini ban đầu. Mẫu xe mới dự định là sẽ ngắn hơn nhưng mạnh mẽ hơn so với Mk I, tuy nhiên do các quyết định quản lý tại BMC, chiếc xe đã không được xây dựng. Thay vì tung ra mẫu xe giống như ý tưởng trên, hãng xe này đã trang bị lưới tản nhiệt phía trước tái thiết kế và một cửa sổ phía sau lớn hơn cho phiên bản kế thừa của Mk I . Và kết quả là, 429 nghìn chiếc Mini Mk II đã được sản xuất.
Mk II trở lên nổi tiếng bằng việc trở thành ngôi sao trong bộ phim “ The Italian Job” với các màn rượt đuổi nghẹt thở trên ba chiếc Mini được điều khiển bởi một băng trộm. Bộ phim đó đã được tái hiện lại trong năm 2003 và sử dụng mẫu xe MINI mới do BMW sản xuất.
Mini Mk III đã mang đến hàng loạt các sửa đổi thiết kế thân xe, mà quan trọng nhất là các cánh cửa lớn với bản lề che kín. Ngoài ra, hệ thống treo đã chuyển từ Hydrolastic sang cao su nhằm mục đích giảm bớt chi phí. Chiếc xe cũng sở hữu cửa sổ phía sau lớn hơn.
Mk IV-VII (1976-2000)
Các thế hệ Mk sau đó, từ MK IV cho đến MK VII đặc trưng bởi nhiều thay đổi kỹ thuật chính bao gồm hệ thống treo cao su phía trước gắn trên khung phụ vói các bu-lông hình tháp đơn, đĩa phanh 8.4 inch và vòm bánh xe plastic. Bắt đầu từ năm 1990, điểm lắp đặt động cơ được di chuyển về phía trước để chứa được động cơ 1278 cc với phiên bản bộ chế hòa khí HIF.
Trong hai thập niên 80s và 90, đã có một vài phiên bản Mini đặc biệt được tung ra thị trường, biến chiếc xe này từ một sản phẩm đại chúng lên thành biểu tượng thời trang. Có lẽ chính vì lý do đó, BMW đã không ngần ngại khi mua lại Mini như một phần của Rover Group.
Dưới sự giám sát của BMW, Mini đã nhận được một túi khí để tuân thủ quy định an toàn châu Âu. Trước năm 2000, Rover Group vẫn đang hứng chịu những thua lỗ nặng nề, BMW đã quyết định bán MG, Rover, Land Rover và chỉ giữ lại thương hiệu Mini để sản xuất một mẫu xe mới với cái tên này.
Chiếc Mini Mk VII cuối cùng đã được sản xuất vào tháng 10 năm 2000, đồng thời cũng là chiếc xe cuối cùng trong tổng số 5,3 triệu chiếc được sản xuất và bán trên toàn thế giới.
BMW MINI mới ( 2000-nay)
Sau khi ngừng sản xuất mẫu xe Mini cổ điển vào năm 2000, BMW đã công bố mẫu xe kế nhiệm Mini - và được gọi là MINI. MINI chia sẻ kiến trúc truyền động trước với người tiền nhiệm, nhưng không còn là một chiếc xe giá cả phải chăng. Thêm vào đó, MINI còn được thừa hưởng yếu tố thể thao, sang trọng từ thương hiệu cao cấp BMW.
MINI Cooper 2013
Với công nghệ hàng đầu, MINI hiện nay là mục tiêu của các tín đồ sành điệu nhưng vẫn muốn trải nghiệm niềm vui ngồi sau tay lái. Thế hệ mới của những MINI Hatch/ Hardtop được bán trên thị trường vào tháng 7 năm 2001 và đã ngay lập tức thành công. Chiến thắng về mặt doanh số của MINI là bằng chứng rõ nét cho việc chiếc xe mới này hoàn toàn phù thuộc với các tiêu chuẩn của thế kỷ 21 khi mà sự thoải mái, an toàn và các yếu tố môi trường đang ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn. Đây cũng chính là động lực khiến BMW quyết định đầu tư 100 triệu USD vào nhà máy MINI ở Oxford, Anh quốc vào tháng 2 năm 2005 giúp tăng lượng sản xuất lên 20%.
Tuy nhiên, tham vọng mở rộng phạm vi MINI vẫn không ngừng lại khi BMW đã công bố một khoản đầu tư khổng lồ - 500 triệu USD vào tháng 6 năm 2011 trong vòng 3 năm cho các nhà máy tại nước Anh để mở rộng MINI lên 7 mẫu xe, bao gồm những cái tên như Mini Countryman, Coupé, Roadster và Paceman…
Ngọc Điệp (TTTĐ)
Ý kiến đánh giá